Nguồn lợi thủy sản vùng Đồng bằng sông Cửu Long năm 2022 và xu hướng biến động

          Nghiên cứu biến động thành phần loài cá và sản lượng khai thác thủy sản nội địa vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã được thực hiện trong năm 2022 bằng phương pháp quan trắc sản lượng khai thác hằng ngày tại 7 trạm quan trắc (mỗi trạm 3 ngư dân) thuộc 4 tỉnh (An Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long và Trà Vinh) đại diện cho 5 vùng sinh cảnh khác nhau với 2 loại ngư cụ lưới bén và lưới ba màng. Kết quả quan trắc đã ghi nhận được 120 loài cá – tôm, 42 họ và 14 bộ. Trong đó bộ cá Vược (Perciformes) có số họ và số loài cao nhất lần lượt là 20 họ chiếm 47,6% và 36 loài chiếm 30,0%, kế đến bộ cá Da trơn (Siluriformes) có 8 họ chiếm 19,5%, các bộ còn lại chiếm tỉ lệ thấp dưới 5%. Bên cạnh đó, bộ Chép (Cypriniformes) có số loài cao đứng hàng thứ hai là 33 loài chiếm 27,5%, các bộ còn lại có số loài chiếm dưới 4,0%. Trong tổng số 42 họ được thể hiện qua 120 loài thì họ cá Chép có số loài cao nhất 32 loài chiếm 26,7%, kế đến là họ cá Tra 11 loài chiếm 9,2%, họ cá Đù và họ cá Úc lần lượt là 9 loài chiếm 7,5% và 7 loài chiếm 5,8%, các họ khác có dưới 5 loài chiếm 4,2%. Có sự khác biệt rõ ràng về số lượng loài giữa các vùng sinh thái; cụ thể, vùng dòng chính hiện diện 70 loài (58,3%), vùng cửa sông ven biển có 63 loài (52,5%), nhóm còn lại bao gồm vùng ngập lũ, kênh rạch và dòng nhánh có số loài lần lượt là 20 loài (16,7%), 23 loài (19,2%) và 18 loài (15,0%).

          Tổng sản lượng khai thác tại 7 trạm quan trắc của 21 ngư dân tham gia trong năm 2022 là 14.924,5 kg. Trong đó, tổng sản lượng khai thác (SLKT) cao nhất ở trạm Cầu Quan là 7.108,5 kg (vùng cửa sông ven biển), kế đến là trạm An Phú với 2.338,8 kg (vùng ngập lũ) và trạm Vàm Nao (dòng chính) với 1.800,5 kg. Các trạm còn lại thuộc kênh rạch và dòng nhánh có tổng sản lượng dao động từ 635,2 – 1.207,8 kg. Xuất hiện 7 loài cá ngoại lai hiện diện trong tất cả các vùng sinh cảnh quan trắc, với tỉ lệ chiếm 2,23% tổng SLKT. Có sự biến động SLKT theo giờ trên mỗi 100 m2 lưới tại các vùng sinh cảnh khác nhau, trung bình cho toàn vùng đạt CPUE = 0,22 kg/giờ/100 m2, trong đó dòng nhánh có cường lực khai thác đạt hiệu suất cao nhất CPUE = 0,52 kg/giờ/100 m2, tiếp theo đó là dòng chính có CPUE = 0,31 kg/giờ/100 m2 và thấp nhất là vùng ngập lũ có CPUE = 0,002 kg/giờ/100 m2, các vùng còn lại như kênh rạch và cửa sông ven biển có hiệu suất khai thác tương đối thấp lần lượt đạt CPUE = 0,14 kg/giờ/100 m2 và CPUE = 0,03 kg/giờ/100 m2. Hiện trạng khai thác cho thấy số loài và sản lượng khai thác có xu hướng giảm nhẹ qua các năm quan trắc. Về sản lượng khai thác có chiều hướng lao dốc liên tục từ năm 2018 đến 2021 lần lượt là 14.461kg còn 7.225 kg nhưng sau đó lại tăng lên vào năm còn lại. Số lượng loài cũng có chiều hướng sụt giảm từ 157 loài (năm 2017) xuống còn 64 loài (năm 2021) nhưng có sự biến động tăng đột ngột lên 120 loài vào năm 2022. Nhìn chung, số loài bắt gặp và sản lượng khai thác qua các năm đã thể hiện xu hướng suy giảm nhẹ. Chỉ số đa dạng loài cho thấy có sự biến động cao nhất H’=3,19 (năm 2020) và thấp nhất H’=2,46 (năm 2021), các năm còn lại có chỉ số đa dạng loài H’ dao động từ 2,85 – 3,05. Trong năm 2022 có sự xuất hiện 4 loài mới: cá lạt vàng (Congresox talabon), cá bẹ (Scomberoides lysan), cá thu sông (Scomberomorus sinensis) và cá cháo biển (Elops hawaiensis). Đây là những loài cá có nguồn gốc từ nước lợ mặn được khai thác ở các trạm Vũng Liêm (Vĩnh Long) và Cầu Quan (Trà Vinh).

Các trạm quan trắc sản lượng khai thác thủy sản của ngư dân.
Ngư dân khai thác ở dòng chính.  Ngư dân khai thác ở cửa sông ven biển.
Ngư dân xử lý mẫu khai thác ở vùng ngập lụt. Ngư dân xử lý mẫu khai thác ở cửa sông ven biển.

Nguyễn Nguyễn Du, Phan Thanh Lâm

Phòng Sinh thái nghề cá và Tài nguyên thủy sinh vật.

Bài viết liên quan