Kết quả bước đầu xây quy trình sản xuất giống cá bông lau (Pangasius krempfi) trong điều kiện môi trường nước ngọt

Cá bông lau (Pangasius krempfi) là một trong những loài cá có giá trị kinh tế lớn và phân bố nhiều trong điều kiện sinh thái ven sông (ngọt và lợ) của vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Rainboth, 1996) thường bắt gặp ở sông Hậu và sông Tiền, là loài cá mà trong vòng đời có tập tính di cư để sinh sản (Roberts và Vidthayanon, 1991). Cho đến nay, những hiểu biết về loài cá này còn khá hạn chế và cũng chưa được đầu tư nghiên cứu nhiều về quy trình sản xuất giống nhân tạo trong khi nguồn lợi tự nhiên giảm sút do khai thác nhiều.

Trong năm 2023, đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá bông lau (Pangasius krempfi)”  đã thu thập bổ sung 200 cá hậu bị, khối lượng trung bình 4,9±0,2 kg/con, cộng gộp với đàn cá hiện hữu của Trung tâm Quốc gia Giống Thủy sản Nước ngọt Nam Bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II (Viện II) là nguồn vật liệu cho nghiên cứu này. Kết quả phân tích COI để xác định loài đàn cá bông lau tại Viện II cho thấy có trình tự tốt với chiều dài đoạn gen là 635 bp và khác với cá tra bần (651 bp). Khi so sánh với dữ liệu GenBank (GB) cho thấy nguồn vật liệu này giống với trình tự cùng loài đã công bố từ 99,7% đến 100% (mã số truy cập được so sánh là MN073460.1 và KT289877.1). Như vậy, đàn cá dùng nghiên cứu này chính xác là loài Pangasius krempfi.

Đàn cá thu thập được bố trí thí nghiệm nuôi vỗ trong bè với mật độ nuôi vỗ là 3 kg/m3, 2 nghiệm thức thức ăn được thử nghiệm: Nghiệm thức 1 “Sử dụng thức ăn công nghiệp kết hợp với thức ăn tươi sống” (Tỷ lệ 80:20); Nghiệm thức 2 “Nuôi vỗ bằng 100% thức ăn công nghiệp”. Bổ sung vitamin E 300 mg/kg thức ăn, vitamin C 150 mg/kg thức ăn,1,5% premix, vitamin tổng hợp 150 mg/kg thức ăn, béo 12% cho cả 2 nghiệm thức, khẩu phần ăn là 1,5 – 3%. Mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần.

Kết quả sau 7 tháng nuôi vỗ cho thấy cá bông lau thành thục tốt, sẵn sàng cho kích thích sinh sản với đường kính trứng trung bình đạt 1,35 ± 0,05 mm và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa hai nghiệm thức thức ăn. Tuy nhiên, tỉ lệ thành thục có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p< 0,05) giữa 2 nghiệm thức thức ăn. Nghiệm thức 1 “Sử dụng thức ăn công nghiệp kết hợp với thức ăn tươi sống” cá đạt tỷ lệ thành thục cao và ổn định (60%) và cao hơn nghiệm thức 2 “Nuôi vỗ với 100% thức ăn công nghiệp”, tỉ lệ thành thục đạt trung bình 40%.

Hình 1. Tỷ lệ thành thục của cúa nuôi vỗ của cá bông lau ở 2 nghiệm thức thức ăn.
Cá bông lau kích cỡ cá hương. Cá bông lau kích cỡ cá giống.
Cá bông lau bố mẹ. Cá bông lau cái (hình trên), cá bông lau đực (hình dưới)

Hình 2. Cá bông lau được nuôi vỗ, nghiên cứu sinh sản nhân tạo tại Viện.

Bài và ảnh: Phạm Đăng Khoa

Trung tâm Quốc gia giống Thủy sản Nước ngọt Nam Bộ

Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II

Email: pdk19045@gmail.com

Điện thoại: 0988975970

Bài viết liên quan